Giáo án bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 11 - Buổi 15 - Năm học 2019-2020 - Đinh Thị Sen

doc 4 Trang tailieuthpt 8
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 11 - Buổi 15 - Năm học 2019-2020 - Đinh Thị Sen", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 11 - Buổi 15 - Năm học 2019-2020 - Đinh Thị Sen

Giáo án bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 11 - Buổi 15 - Năm học 2019-2020 - Đinh Thị Sen
 Trường THPT Đức Thọ Giáo án BDHSG - Địa lí 11
Buổi 15: Ngày soạn: 2/ 1/ 2019
Chuyên đề : TÌM HIỂU TỔ CHỨC WTO
LỊCH SỬ RA ĐỜI, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ, CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ 
CÁC HIỆP ĐỊNH CƠ BẢN CỦA WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là diễn đàn thương lượng về mậu dịch theo hướng tự 
do hoá thương mại lớn nhất toàn cầu với 153 thành viên (đến 9/2009) và chiếm tới 95% 
giao dịch thương mại quốc tế. Bên cạnh việc thương lượng để loại bỏ các rào cản trong 
thương mại, WTO còn đưa ra các nguyên tắc và cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế, giải 
quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên, và giám sát việc thực hiện các Hiệp định 
trong khuôn khổ WTO.
1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - tiền thân của tổ chức 
thương mại quốc tế (WTO)
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai vẫn còn chưa kết thúc, các nước đã nghĩ đến việc thiết lập 
các định chế chung về kinh tế để hỗ trợ công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Hội nghị Bretton 
Woods triệu tập ở bang New Hampshire (Hoa Kỳ) năm 1944 nhằm mục đích này. Kết quả 
của Hội nghị Bretton Woods là sự ra đời của 2 tổ chức tài chính: Ngân hàng Tái thiết và 
Phát triển Quốc tế (nay gọi là Ngân hàng Thế giới - WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). 
Một tổ chức chung về thương mại cũng được đề xuất thành lập với tên gọi Tổ chức Thương 
mại Quốc tế (ITO).
Phạm vi đề ra cho ITO là khá lớn, bao trùm lên cả các vấn đề việc làm, đầu tư, cạnh tranh, 
dịch vụ, vì thế việc đàm phán Hiến chương (hiểu cách khác là Điều lệ) của ITO diễn ra khá 
lâu. Trong khi đó, vì mong muốn sớm cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh công cuộc tái thiết 
sau chiến tranh, năm 1946, một nhóm 23 nước đã đàm phán riêng rẽ và đạt được một số ưu 
đãi thuế quan nhất định. Để ràng buộc những ưu đãi đã đạt được, nhóm 23 nước này quyết 
định lấy một phần về chính sách thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO, biến nó thành 
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT có hiệu lực từ 1/1/1948 như 
một thoả thuận tạm thời trong khi chờ ITO được thành lập. Nhưng ITO không ra đời: mặc 
dù Hiến chương ITO đã được thông qua tại Havana (Cuba) tháng 3/1948, nhưng việc Quốc 
hội Hoa Kỳ trì hoãn không phê chuẩn Hiến chương làm cho các nước khác cũng không phê 
chuẩn, dẫn đến ITO không trở thành hiện thực. Do vậy, GATT trở thành cơ cấu đa phương 
duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế cho đến khi WTO ra đời.
Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc 
thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên tham 
gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành 
lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. 
Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế 
quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế 
quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung bình 
40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển chỉ còn 
khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%.
2. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 1980, đầu 1990, 
trước những biến chuyển của tình hình thương mại quốc tế và sự phát triển của khoa học-kỹ 
thuật, GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình hình.
Trước tình hình đó các bên tham gia GATT nhận thấy cần phải có nỗ lực để củng cố và mở 
rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và các hiệp 
 GV: §inh ThÞ Sen Trường THPT Đức Thọ Giáo án BDHSG - Địa lí 11
khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình 
đẳng, không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản 
phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng 
phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia 
thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành 
viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này.
- Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT)
Đãi ngộ quốc gia, viết tắt theo tiếng Anh là NT (National Treatment), nguyên tắc NT yêu 
cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá 
tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập 
khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa 
khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong 
nước.
- Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc “mở cửa thị trường” hay còn gọi là “ tiếp cận thị trường” (market access) thực 
chất là mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài vào. Trong thương 
mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì 
điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt chính 
trị, “tiếp cận thị trường” thể hiện nguyên tắc tự do hóa thương mại của WTO, về mặt pháp 
lý, “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết 
về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán gia nhập WTO.
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh trong những 
điều kiện bình đẳng như nhau”. Việc thúc đẩy cạnh tranh công bằng bằng cách loại bỏ các 
hoạt động mang tính “ không công bằng” như trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, bán phá 
giá nhằm tranh giành thị phần.
5. Cơ cấu tổ chức của WTO
Hiện nay, WTO có 153 nước thành viên (tính đến tháng 9/2009), Đại Hội đồng WTO đã 
chấp thuận Cape Verde là thành viên thứ 153 của WTO).
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất hai năm một lần, 
là cơ quan đưa ra quyết định đối với mọi vấn đề của bất kỳ hiệp định cụ thể nào. Thông 
thường, Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các đường lối, chính sách chung để các cơ quan cấp dưới 
tiến hành triển khai.
Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại Hội đồng, tiến hành các công việc hàng ngày của WTO 
trong thời gian giữa các Hội nghị Bộ trưởng, thông qua ba cơ quan chức năng là: Đại Hội 
đồng, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát Chính sách Thương mại 
(TPRB).
Đại Hội đồng giải quyết các vấn đề của WTO thay mặt cho Hội nghị Bộ trưởng và báo cáo 
lên Hội nghị Bộ trưởng. Đại Hội đồng cũng đồng thời đóng vai trò là Cơ quan Giải quyết 
Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát chính sách (TPRB).
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp được phân ra làm Ban Hội thẩm (Panel) và Uỷ ban Kháng 
nghị (Appellate). Các tranh chấp trước hết sẽ được đưa ra Ban Hội thẩm để giải quyết. Nếu 
như các nước không hài lòng và đưa ra kháng nghị thì Uỷ ban Kháng nghị sẽ có trách nhiệm 
xem xét vấn đề.
Dưới Đại Hội đồng, WTO có ba Hội đồng về ba lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội đồng 
Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về Quyền sở hữu trí tuệ 
 GV: §inh ThÞ Sen 

File đính kèm:

  • docgiao_an_boi_duong_hoc_sinh_gioi_mon_dia_li_11_buoi_15_nam_ho.doc