Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn - Dạy học đọc hiểu các văn bản học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn - Dạy học đọc hiểu các văn bản học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn - Dạy học đọc hiểu các văn bản học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 1 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ................................................................. 2 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 2 5. Đóng góp mới của đề tài .............................................................................................. 2 6. Kết cấu đề tài ............................................................................................................... 2 NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3 Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI .......................................................... 3 1.1. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học trong chương trình Ngữ văn THPT .................. 3 1.2. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học ............................................................................................................ 4 1.3 Thực trạng dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong nhà trường phổ thông ................................................................................................................................ 5 1.3.1. Diện mạo và đặc điểm của văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông .................................................................................................. 5 1.3.2. Dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu - nhìn từ định hướng sách giáo khoa và hướng dẫn giảng dạy ................................................................................. 7 1.3.3. Hướng tiếp cận các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông của giáo viên và học sinh ............................................................. 10 Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC PHI HƯ CẤU ............................................................. 12 2.1. Đặc điểm nghệ thuật của văn bản văn học phi hư cấu ........................................... 12 2.2. Tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT ...................................................................................................... 13 2.2.1. Hướng dẫn học sinh tự đọc văn bản .................................................................... 13 2.2.2. Gợi mở cho học sinh các hướng tích hợp văn bản văn học phi hư cấu .............. 14 2.2.3. Gợi mở học sinh khám phá giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của văn bản .................... 17 2.3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo ................................................................ 24 Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................................. 25 3.1. Giới thiệu chung ..................................................................................................... 25 3.1.1. Mục đích thực nghiệm ......................................................................................... 25 3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm ......................................................................................... 26 3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ......................................................... 26 3.2.1. Lựa chọn địa bàn thực nghiệm ............................................................................ 26 3.2.2. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm ........................................................................ 26 3.3. Nội dung thực nghiệm ............................................................................................ 27 3.3.1. Nguyên tắc thiết kế giáo án và giáo án thực nghiệm .......................................... 27 3.3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm..................................................................................... 42 3.4. Kết quả thực nghiệm ............................................................................................... 43 3.4.1. Kết quả định tính ................................................................................................. 43 3.4.2. Kết quả định lượng .............................................................................................. 45 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 49 PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 52 Thứ hai, xây dựng được những nguyên tắc, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn ở trường THPT. Thứ ba, thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả bước đầu. Từ đó, đề xuất những giải pháp có tính khả thi trong hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những nội dung, phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. 3.2. Phạm vi khảo sát là các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng đồng thời hai phương pháp: nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Trong đó sẽ áp dụng một số thao tác cụ thể, như: khảo sát, thống kê, miêu tả; phân tích, tổng hợp; so sánh đối chiếu; thực nghiệm sư phạm... 5. Đóng góp mới của đề tài 5.1. Đóng góp về lí luận Đề tài góp phần xác lập quan điểm lí luận dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. 5.2. Đóng góp về thực tiễn Đề tài góp phần đánh giá một cách toàn diện thực trạng của vấn đề dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. Đề tài đề xuất được một số nội dung, phương pháp dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. 6. Kết cấu đề tài Ngoài Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài Chương 2: Một số biện pháp tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 2 chương hồi (Trung Quốc), truyện ngắn hiện thực trào phúng của A. Sê Khốp (Nga), tiểu thuyết lãng mạn của V. Huy go (Pháp), thơ tình của A. Puskin (Nga) và R. Tagor (Ấn Độ), Như vậy, cấu trúc chương trình đã thể hiện mục tiêu bồi dưỡng cho HS cách thức đọc hiểu văn bản dựa trên đặc trưng loại hình và thể loại để thấy đặc sắc tác phẩm. 1.2. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học Với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, việc phát triển phẩm chất, năng lực cho người học được xem là một yêu cầu cốt lõi của giáo dục Việt Nam trong thời hiện đại. Đây là một nhận thức mang tính nguyên tắc đã được khẳng định trong Nghị quyết 88 (28/11/2014) của Quốc Hội. Theo đó: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh”. Để thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Từ những định hướng trong Nghị quyết 88 của Quốc hội, chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định những phẩm chất, năng lực cốt lõi mà HS Việt Nam cần phải có, bao gồm sáu phẩm chất (Yêu gia đình, quê hương, đất nước; Nhân ái, khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ và tinh thần vượt khó; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên; Thực hiện nghĩa vụ đạo đức, tôn trọng, chấp hành kỉ luật, pháp luật) và ba năng lực (Năng lực làm chủ và phát triển bản thân: tự học, giải quyết vấn đề, sáng tạo, quản lí bản thân; Năng lực xã hội: giao tiếp, hợp tác; Năng lực công cụ: tính toán, sử dụng ngôn ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin). Tháng 7 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố dự thảo Chương trình phổ thông mới có sự thay đổi ít nhiều trong việc xác định mục tiêu, yêu cầu của giáo dục phổ thông. Theo đó, chương trình giáo dục phổ thông hướng tới hình thành và phát triển cho HS năm phẩm chất (yêu nước; nhân ái; chăm chỉ; trung thực; trách nhiệm) 4 Tường (Ngữ văn 12) vào loại văn bản văn học phi hư cấu, mặc dù ở đó ranh giới giữa hư cấu và phi hư cấu là hết sức nhòe mờ. Cả hai văn bản đều thuộc thể ký, được viết dựa trên những hình ảnh, con người, sự việc có thật. Các chi tiết, sự kiện, hình ảnh hết sức xác thực. Những rung động, sáng tạo của nhà văn đều dựa trên những sự thật đời sống, nhất là ở Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Năng lực sáng tạo, tài năng nghệ thuật của nhà văn không phải là ở khả năng tưởng tượng, hư cấu mà là ở cách kể, cách tả, lối hành văn độc đáo. Những gì Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường kể, tả trong hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? hoàn toàn không phải là sản phẩm của một trí tưởng tượng thuần túy mà là từ những quan sát, vốn tri thức văn hóa, xã hội, lịch sử phong phú và sự trải nghiệm đời sống sâu sắc của nhà văn. Cảnh sắc, sự vật, con người, chi tiết, sự kiện... hiện lên trong tác phẩm đều thấm đẫm cảm xúc trữ tình và đầy mỹ cảm. Đó không chỉ là kể mà còn là tả; không chỉ nhìn thấy mà còn tưởng tưởng, phóng tác. Các hình tượng trung tâm như sông Đà, Người lái đò sông Đà, sông Hương vừa thực một cách gần gũi lại vừa hư ảo qua sự thăng hoa nghệ thuật của ngòi bút nhà văn. Nói cách khác, thực một cách tương đối, có nhiều khác biệt so với các chi tiết, sự kiện... trong các văn bản văn học phi hư cấu đã nêu trên. Cách tiếp cận hai văn bản này, vì vậy phải hết sức linh hoạt, biến hóa, không thể rập khuôn máy móc. Dưới góc nhìn loại hình văn học, có thể thấy trong số các văn bản văn học phi hư cấu đã nêu trên, có ba văn bản thuộc loại hình văn học trung đại (Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn; Thái sư Trần Thủ Độ; Vào phủ chúa Trịnh) và ba văn bản văn học hiện đại (Người lái đò Sông Đà; Ai đã đặt tên cho dòng sông?; Những ngày đầu của nước Việt Nam mới). Ba văn bản thuộc loại hình văn học trung đại đều có sự pha trộn, đan cài giữa văn và sử. Ở đó, chi tiết, sự kiện là xương sống, hồn cốt làm nên sức sống, sức hấp dẫn của văn bản và được tái hiện một cách tuần tự theo theo trật tự tuyến tính. Tính chân thực là điều được coi trọng, đề cao. Sự can dự của người kể là rất ít và được ẩn kín đằng sau cách kể, lối hành văn. Cách kể, lối viết luôn đề cao chân, thực; không phóng đại, khoa trương, không vượt thoát tính quy phạm của văn xuôi trung đại. Khác với các văn bản văn học trung đại, các văn bản văn học hiện đại lại mang đậm dấu ấn nhà văn. Điều này không chỉ thể hiện ở hai văn bản Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc 6 SGK, chúng tôi nhận thấy, hệ thống câu hỏi đều bám sát văn bản, tập trung khai thác nội dung và nghệ thuật các văn bản. Đó là một định hướng đúng. Tuy nhiên, hạn chế của hệ thống câu hỏi là chưa chú trọng đến các cấp độ của một bài đọc hiểu. Câu hỏi về tác giả, thể loại của tác phẩm còn chưa được quan tâm. Trong khi đây là những yếu tố góp phần không nhỏ để tiếp nhận, giải mã văn bản. Những câu hỏi mang tính sáng tạo, theo lối gợi mở, phát huy tính tích cực chủ động của HS chưa được chú trọng. Điều này ít nhiều đã làm giảm hứng thú học tập, nhất là những HS, có năng lực tư duy, cảm thụ văn chương. Bên cạnh đó, một hạn chế khá rõ là còn thiếu những câu hỏi mang tính tích hợp, phát huy năng lực tư duy sáng tạo của HS. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đó, những năng lực khám phá, sáng tạo, liên hệ, đối chiếu và khái quát, tổng hợp những giá trị của văn bản còn chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, các câu hỏi định hướng cách đọc hiểu, kĩ năng đọc hiểu chưa được quan tâm. Nói cách khác, con đường, cách thức đọc hiểu một văn bản văn học phi hư cấu chưa được các nhà biên soạn sách giáo khoa chú ý nhiều qua hệ thống câu hỏi. Trong ba mức độ nhận thức (nhận biết, hiểu, sáng tạo), hệ thống câu hỏi mới chỉ thể hiện ở hai mức độ (nhận biết, hiểu). Qua cách kể của Ngô Sĩ Liên, có thể thấy những phẩm chất của nhân vật Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được tái hiện một cách chân thực, sinh động trên các mặt, như: tài năng, phẩm chất, nhân cách, đạo đức. Hình tượng cái tôi tác giả Ngô Sĩ Liên cũng cần được định hướng, gợi mở để học sinh phát hiện (tài năng, trung thực, đáng kính). Mặt khác, tính chất đọc hiểu văn bản văn học đòi hỏi phải có những câu hỏi mang tính mở, ví như: Lời cha dặn đã đặt Trần Quốc Tuấn trước những mâu thuẫn nào? Tại sao Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lại không nghe lời cha lấy lại thiên hạ? Cách giải quyết của ông? Nếu là chúng ta thì sẽ giải quyết như thế nào? Các em có suy nghĩ, nhận xét và đánh giá như thế nào về nhân vật người kể chuyện? Đó là một cái tôi như thế nào? Thái độ, tình cảm? Điều chúng ta học tập được ở Ngô Sĩ Liên? Nhận xét về nghệ thuật của đoạn trích? Liên hệ, so sánh với tác phẩm sử kí nổi tiếng của Trung Quốc như Sử kí Tư Mã Thiên? Dĩ nhiên, trong khuôn khổ SGK không thể đưa tất cả những câu hỏi này vào, song đó là những nội dung cần phải tính tới trong thiết lập hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu mà người dạy phải quan tâm, gợi mở cho HS. Nghĩa là, người dạy không thể chỉ dừng lại ở những câu hỏi trong SGK mà phải chủ động suy nghĩ, phát triển, gợi mở thêm ở nhiều bình diện, cấp độ khác của văn bản. Hệ thống câu hỏi phải 8 văn bản văn học phi hư cấu không có gì khác so với định hướng dạy, học đọc hiểu văn bản văn học hư cấu. Hệ quả của nó là cả người dạy và người học chỉ tập trung tìm kiếm các giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản mà ít chú ý đến cách đọc văn bản. Nói cách khác, phương pháp, kĩ năng đọc chưa được quan tâm. Mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực của HS qua giờ dạy, học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu, chưa được thể hiện rõ qua hệ thống câu hỏi và định hướng dạy, học. 1.3.3. Hướng tiếp cận các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông của giáo viên và học sinh Để có cái nhìn khách quan về tình hình dạy, học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu ở trường THPT hiện nay, chúng tôi đã khảo sát thực tế bằng một hệ thống phiếu trả lời trắc nghiệm. Đối tượng khảo sát là 20 GV Ngữ văn và 400 HS ở 2 trường THPT trên địa bàn huyện A và huyện B. Nội dung khảo sát tập trung vào những vấn đề về nhận thức, quan niệm, phương pháp dạy, học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. Kết quả khảo sát gợi cho chúng ta nhiều điều phải suy nghĩ về thực trạng dạy, học văn hiện nay ở trường THPT. Về phía giáo viên Chúng tôi đã thiết lập một mẫu phiếu điều tra với 10 câu hỏi trắc nghiệm nhằm khảo sát những vấn đề được nêu. Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết GV đều ý thức được tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. Có tới 87.5% GV được hỏi cho rằng việc dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT là cần thiết hoặc rất cần thiết. Bên cạnh đó còn có một số GV tỏ thái độ không quan tâm tới việc dạy học các văn bản văn học phi hư cấu (5%). Đặc biết có tới 20% GV cho rằng không có hứng thú với việc dạy học văn bản văn học phi hư cấu. Nhiều GV chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn bản văn học hư cấu và văn bản văn học phi hư cấu. Có tới 62,5% GV được hỏi cho rằng không có sự khác biệt giữa văn bản văn học hư cấu với văn bản văn học phi hư cấu. Điều này đã dẫn tới những khó khăn vướng mắc khi dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu. GV chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản bản thân (50%) và tham khảo tài liệu (37.5%). Khảo sát hiệu quả dạy học các văn bản văn học phi hư cấu, cho thấy chất lượng không cao. Có 50% GV được hỏi đánh giá, mức độ hiệu quả của việc dạy học đọc hiểu 10 Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC PHI HƯ CẤU 2.1. Đặc điểm nghệ thuật của văn bản văn học phi hư cấu Nhìn vào chương trình Ngữ văn THPT, có thể chia các văn bản văn học thành hai loại: hư cấu (fiction) và phi hư cấu (non-fiction). Văn bản văn học phi hư cấu được xây dựng trên cơ sở những sự kiện, biến cố có thật, có thể được kiểm chứng một cách khách quan. Đó không phải là câu chuyện được tưởng tượng, hư cấu, bịa đặt. Những sự việc, con người ở đây đều được xác định rõ ràng về địa chỉ. Sức hấp dẫn mà văn xuôi phi hư cấu đem lại chính là sức hấp dẫn của sự thật. Nhà văn khi sáng tạo một tác phẩm theo lối phi hư cấu thường có tư chất của nhà nghiên cứu đi tìm sự thật. Điều chính yếu làm nên giá trị, phẩm chất và ưu thế của văn học phi hư cấu là tính chính xác và trung thực của nó. Sự kiện đã xảy ra khi nào? Ở nơi chốn nào? Ai đã tham gia vào sự kiện đó? Trong tất cả những trường hợp này, người đọc đòi hỏi câu trả lời cặn kẽ và rõ nghĩa, dù đó là con số, ngày tháng, lời khẳng định hay phủ định. Việc đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu phải chú trọng tới sự thật được nói tới trong tác phẩm. Văn bản phi hư cấu giống như những mảnh tranh ghép, được xây dựng từ những bức chân dung nhân vật, những bức tranh miêu tả cảnh quan đời người và sân khấu chính trị - xã hội, những suy niệm và trầm tư thế sự. Đồng thời là những bức tranh thiên nhiên hết sức thơ mộng, trữ tình của quê hương, đất nước. Đương nhiên, những bức tranh ấy được tô điểm bằng tình cảm chân thật của người cầm bút, được tái hiện thông qua các thủ pháp nghệ thuật điêu luyện. Với những đặc điểm đó, thể ký điển hình cho văn học phi hư cấu. Bút ký, tùy bút, đặc biệt là hồi ký, ký sự đều coi trọng tính chân thực, xem đó là phẩm chất nghệ thuật nổi bật của thể loại. Ngoài ra, tự truyện, tiểu thuyết tư liệu cũng mang đặc điểm của văn học phi hư cấu. Cấu trúc nghệ thuật của các văn bản văn học phi hư cấu có những khác biệt so với văn học hư cấu. Ở đó người kể, cách kể, ngôn ngữ kể luôn giữ vai trò quan trọng trong việc tái hiện hiện thực đời sống. Những hư cấu, tưởng tượng, phóng tác được tiết giảm tới mức tối đa. Mở một văn bản phi hư cấu, người đọc tin rằng đây là cuộc đời tự nó lên tiếng, người trần thuật không can thiệp làm méo mó bản chất của sự kiện. Nhưng đồng thời, người đọc cũng chờ đợi cuộc gặp gỡ với một người trần thuật sâu sắc và tinh tường, có năng 12 kế theo con đường như sau: yêu cầu HS tìm hiểu, cắt nghĩa các chi tiết, yếu tố của văn bản; sau đó liên kết chúng lại, so sánh, đối chiếu để rút ra ý nghĩa khái quát của nó. Vì thế, bấy nhiêu yếu tố thì cũng có bấy nhiêu câu hỏi nhằm vào việc khai thác, khám phá chung. Câu hỏi về ý nghĩa của chi tiết, hình tượng, suy luận, biểu tượng; câu hỏi về kết cấu; câu hỏi để tưởng tượng, suy luận; câu hỏi về chủ đề, tư tưởng; câu hỏi về phong cách, sáng tạo của tác giả trên cơ sở bài đọc hiểu Đó là những câu hỏi có tính gợi mở. Và để cho HS đọc hiểu văn bản tốt nhất, GV cần phải thiết kế hệ thống câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; đúng lúc, đúng chỗ; phù hợp với trình độ HS; kích thích suy nghĩ của HS; sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; phải đa dạng hóa câu hỏi... 2.2.2. Gợi mở cho học sinh các hướng tích hợp văn bản văn học phi hư cấu Một trong những đổi mới quan trọng của chương trình và SGK Ngữ văn là lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình và biên soạn SGK. Những vấn đề như trục tích hợp, tích hợp dọc, tích hợp ngangđã được giới thiệu rộng rãi, có vai trò định hướng trong thiết kế bài giảng và cách thức dạy học của GV. Lí thuyết liên văn bản đòi hỏi trong tiếp thu văn chương luôn cần có sự đối sánh. Theo đó, GV cần định hướng cho HS các địa chỉ tích hợp để HS đối sánh, tìm ra điểm chung, điểm riêng, khắc sâu các kiến thức, kĩ năng được hình thành qua bài đọc hiểu. Dạy học văn bản Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên), GV cần cung cấp cho HS các địa chỉ tích hợp, như: văn bản Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn - Ngữ văn 8,9); Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên - Ngữ văn 10). Ngoài ra, còn có thể tích hợp với các bài thơ thời Trần, để thấy rõ hào khí Đông A, như: Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh - Trần Quang Khải), Thuật hoài (Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão) Dạy học văn bản Vào phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác) GV cần cung cấp cho HS các địa chỉ tích hợp, như: Hoàng Lê nhất thống chí, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, (Ngữ văn 9); Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ - Ngữ văn 9) Các địa chỉ tích hợp này đều được sáng tác cùng thời kỳ, có chung chủ đề, chung quan điểm, đồng thời lại có những điểm riêng về phong cách, cá tính sáng tạo, có sự khác biệt trong cách thể hiện đối tượng. Tích hợp với các văn bản này sẽ giúp HS có cơ sở, có định hướng để khám phá các văn bản văn 14 văn học trung đại là cái tôi phi ngã, còn cái tôi trong văn hiện đại là cái tôi cá nhân, cá thể. Ở mỗi văn bản cụ thể, GV phải định hướng cho HS tích hợp. Chẳng hạn: Dạy học văn bản Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân), GV cần cung cấp cho HS các địa chỉ tích hợp, như: Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11), Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường, (Ngữ văn 12)... Bên cạnh đó cần phải định hướng cho HS tích hợp kiến thức liên môn. Chẳng hạn, khi dạy học đọc hiểu văn bản Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân), có thể tích hợp với bài 6 Đất nước nhiều đồi núi; bài 32 Vấn đề khai thác thế mạnh ở Trung du và miền núi Bắc Bộ (Địa lí 12). Đây là một vùng đất với nhiều núi đá vôi, sông suối, đèo dốc. Quan sát bản đồ, để thấy được điểm đặc biệt của sông Đà là trong khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, sông Đà lại chảy về hướng bắc “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”. Sông Đà nói riêng và Tây Bắc nói chung là một vùng kinh tế tiềm năng về thủy điện, du lịch. Theo đó, ở bài học này có thể tích hợp với bài 21.Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965) (Lịch sử 12) để các em thấy được công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong đó có phong trào đi xây dựng vùng kinh tế mới Tây Bắc. Hướng tích hợp tiếp theo là tích hợp ngang giữa ba phân môn: Đọc văn, Làm văn và Tiếng Việt. Trong chương trình Ngữ văn 12, các tiết tiếng Việt: Thực hành một số phép tu từ ngữ âm, cú pháp, sẽ được tích hợp với các văn bản nói trên để khai thác văn bản một cách toàn diện. Ví dụ: văn bản Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng các pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt cả năm” để diễn tả dòng chảy dữ dội, khủng khiếp của dòng Sông Đà. Những câu văn giàu giá trị tạo hình, gợi cảm được Nguyễn Tuân sử dụng hết sức phong phú, đa dạng trong Người lái đò Sông Đà thể hiện chất tài hoa, uyên bác ở ông. Các tiết làm văn về nghị luận văn học như Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học cũng góp phần hiểu sâu sắc hơn về văn bản. Ngoài ra, GV cũng cần định hướng HS tích hợp với bài lí luận văn học Quá trình văn học và phong cách văn học, để HS nhận biết phong cách của các nhà văn. Vấn đề tích hợp các kĩ năng sống cho HS cũng cần phải được chú trọng. Có rất nhiều kĩ năng sống, GV cần phải quan tâm tích hợp cho HS qua dạy học các văn bản văn học phi hư cấu, như: kĩ năng tự nhân thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giải 16 sử thể hiện ở việc lựa chọn sắp xếp các sự kiện, chi tiết để làm nổi bật chân dung lịch sử vừa chân thực, vừa sống động. Trong đoạn trích có ba chuyện kể về Trần Quốc Tuấn: chuyện về kế sách giữ nước, chuyện về lòng trung nghĩa và chuyện về công lao, đức độ. Trong câu chuyện về kế sách giữ nước, tác giả tường thuật rõ về thời gian: “Tháng 6, ngày 24, sao sa”, nhân sự kiện Hưng Đạo Đại Vương ốm, nhà vua tới thăm, hỏi han và được dặn dò: tùy thời mà đưa ra sách lược phù hợp, binh pháp chống giặc cần vận dụng linh hoạt; phải biết tập hợp đoàn kết toàn dân, phải “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Qua việc trình bày kế sách giữ nước, ta thấy Trần Quốc Tuấn là một người có kiến thức uyên bác, trí thông minh tuyệt vời, tài năng phi thường, và là một người có tầm nhìn xa trông rộng, thương yêu dân, đất nước, tận trung đến giây phút cuối cùng trong đời. Câu chuyện thật về lòng trung nghĩa được tác giả thuật lại rất gay cấn và hấp dẫn. Việc ông làm trái lời di huấn của An Sinh Vương Trần Liễu, cha ông, chứng tỏ ông đã đặt lợi ích đất nước, triều đình lên trên quyền lợi gia đình, cá nhân. Giữa chữ hiếu và chữ trung, ông đặt chữ trung lên trên một cách tự nguyện, mặc dù trong hoàn cảnh ấy ông hoàn toàn có thể giành lấy ngôi vua về tay mình. Việc thử lòng Dã Tượng và Yết Kiêu, một mặt, thấy được nhân cách cao thượng và tấm lòng trung nghĩa, thẳng thắn, cương trực, hết lòng vì chủ của hai gia nô, mặt khác, khẳng định tư tưởng của Trần Quốc Tuấn hoàn toàn đúng, nên đã tìm được sự đồng cảm ở mọi người, kể cả tầng lớp gia nhân. Chi tiết ông cảm động đến khóc, khi nghe lời giãi bày của người gia nô là một chi tiết đắt giá, cho thấy nhân cách cao cả của ông. Việc thử thách với hai người con trai Quốc Hiến và Quốc Tảng với hai câu trả lời trái ngược nhau và hai thái độ khác nhau đã làm rõ tính cách thận trọng, trung nghĩa và lối giáo dục con cái trong một nhà rất công bằng và nghiêm khắc của Hưng Đạo Vương. Công lao, đức độ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được lưu truyền, được nhân dân quý mến, trân trọng bậc nhất. Ông không chỉ là vị Quốc Công Tiết chế văn võ song toàn, mà còn là chỗ dựa tinh thần cho hai vua trong những lúc vận nước lâm nguy. Câu nói khảng khái của ông gợi nhớ đến câu nói của Trần Thủ Độ mấy chục năm trước đó: “Đầu tôi chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo!”. Ông tiến cử được nhiều người tài, soạn nhiều sách huấn luyện quân sự, binh pháp, và khích lệ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ dưới quyền. Hình ảnh này đã được khắc họa đậm nét trong Hịch tướng sĩ do ông viết (tác phẩm HS đã được học ở THCS). Mặc dù hình ảnh Hưng 18 thế tử, ông biết không thể dùng thứ thuốc công phạt mà các lương y khác vẫn kê. Theo ông, để khỏi làm hao mòn nguyên khí của người bệnh, trước hết phải dùng thứ thuốc thật bổ nhằm giữ “cái căn bản tiên thiên”. Nhưng ông lại sợ thành công trong việc chữa trị theo hướng đó sẽ ràng buộc ông vào danh lợi, khiến ông không thể “về núi” theo tâm nguyện một đời. Có lúc ông suy tính: “Chi bằng ta dùng thứ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Tất nhiên, cuối cùng ông đã không là thế. Ông nghĩ: “Cha ông mình đời đời chịu ơn nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có lẽ, trong tác phẩm, đây là trường hợp hiếm hoi mà lời được chép ra, dù hết sức chân thành, lại không hoàn toàn phản ánh đúng nỗi băn khoăn có thật trong lòng tác giả.Với cách đọc hiểu hiện nay, ta hiểu lời được ông viết ra đó mới chỉ nói lên được phần thói quen, phần quán tính trong cách nghĩ, cách phát ngôn của một thời mà thôi. Sự thực, đó phải là nỗi băn khoăn xuất phát từ đạo đức nghề nghiệp, từ lòng vị tha của một nhân cách cao cả, từ một con người có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích cuộc sống tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà. Điều hấp dẫn và tạo nên sự thành công cho đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh thể hiện chi tiết, sự kiện có những nét riêng. Tác giả quan sát tinh tế, ghi chép chân thực, tỉ mỉ, tả cảnh sinh động, kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc, bộc lộ thái độ một cách kín đáo, để sự vật tự nói. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp giữa văn xuôi và thơ làm tăng chất trữ tình cho tác phẩm. Cái tôi cá nhân của tác giả được bộc lộ mạnh mẽ, rõ ràng. Mọi sự kiện trong đoạn trích đều quy tụ về cái tôi cá nhân của tác giả: tôi thấy, tôi nghĩ, tôi cho rằng, tôi bảo, tôi nói để rồi, khép lại đoạn trích là hình ảnh một Lê Hữu Trác với nhiều tư cách khác nhau: nhà nho, nhà văn, nhà sử học và thầy thuốc. Sự khác biệt trong kí sự của Lê Hữu Trác so với những tác phẩm kí khác thời trung đại Việt Nam biểu hiện ở chỗ, tác giả ghi chép sự việc theotrật tự thời gian. Qua việc miêu tả hành trình vào chữa bệnh trong phủ chúa, chúng ta biết được quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi đây. Thái độ phê phán của tác giả kín đáo ẩn sau sự việc. Phần trích còn có những đoạn tái hiện tâm trạng của nhân vật trong thiên kí sự giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người tinh thần của Lê Hữu Trác. Trong khi đó, một tác phẩm kí trung đại khác là Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (Học sinh được học 20 hứng chủ đạo của cả tập kí là tìm kiếm “chất vàng mười” của thiên nhiên, con người Tây Bắc, một “thứ vàng mười đã thử lửa” như cách nói của ông. Sông Đà, là một con sông hung bạo ở miền núi Tây Bắc của Tổ quốc. Nó thể hiện ở hình dáng, bờ vách, thác nước, hút nước chết người... Hiện hình như một “kẻ thù số một của con người”. Đó là những chi tiết có thực, được ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân khắc họa đầy ấn tượng trong tác phẩm. “Sự thực” về Sông Đà không chỉ có vậy. Nó còn có một “sự thực” khác. Đó là vẻ đẹp trữ tình thơ mộng, là tiềm năng giàu có của nguồn thủy điện. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà đã hiện lên qua hình ảnh mềm mại như một “áng tóc trữ tình”, những bờ bãi hai bên bờ sông với vẻ đẹp nguyên sơ như thời hồng hoang... Không khó để “kiểm chứng” những “sự thật” ấy của Sông Đà. Đến với Sông Đà, với Tây Bắc, không chỉ có thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ, trữ tình làm đắm say du khách, mà còn có những người lao động cần cù, giản dị, tài hoa. Đó là hình ảnh người lái đò Sông Đà vừa mang vẻ đẹp của một trang sĩ trên trận chiến với thác nước Sông Đà, vừa mang trong mình phong thái, tâm hồn nghệ sĩ. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò Sông Đà hiện lên mộc mạc, gần gũi, thô ráp (tay dài lêu nghêu như sào chống đò, chân khuỳnh khuỳnh, nhỡn giới xa vời vợi) vừa chân thực, vừa giàu sức gợi. “Sự thật” trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là dòng sông Hương, và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế thơ mộng; là trầm tích văn hóa, lịch sử của Huế; là vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế. Có một “sự thật” khác của Sông Hương, núi Ngự là nó đã trở thành nguồn cảm hứng cho thơ ca từ bao đời nay. Dưới ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường, những vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương, núi Ngự với những kinh thành trầm mặc uy nghi, những con người Huế dịu dàng... đã hiện lên vừa gần gũi, vừa có sức khơi gợi về thiên nhiên, con người của một vùng đất còn nhiều tiềm ẩn. Trong văn bản Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (Trích Những năm tháng không thể nào quên- Võ Nguyên Giáp), “sự thật” hiện lên chân thực, sống động qua những chi tiết, sự kiện lịch sử dân tộc ngay sau khi giành được chính quyền. Văn bản viết dưới hình thức hồi kí, một hình thức đòi hỏi nghiêm nhặt tính xác thực của chi tiết, sự kiện, từ thời gian, không gian cho đến nhhững con người cụ thể. Trong đoạn trích, người đọc nhận ra tình thế hiểm nguy “ngàn cân treo sợi tóc” của vận nước trong 22 những hình ảnh đặc sắc, giàu nhạc điệu, thấm đẫm chất thơ. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là những nghệ sĩ tài hoa, giàu cá tính, có vốn sống, vốn văn hóa sâu rộng, là hai “bậc thầy” viết ký trong văn học hiện đại Việt Nam. Họ say mê cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp. Nhưng với Nguyễn Tuân, ông luôn có thiên hướng đi tìm cảm giác mạnh. Cái đẹp phải là những hiện tượng đập mạnh vào giác quan của người nghệ sĩ, gây ấn tượng khác thường, thậm chí là dữ dội. Là người đẹp, phải đẹp “đổ quán xiêu đình”, “nghiêng nước nghiêng thành”; là thiên nhiên đẹp, phải là đèo cao, thác dữ, là gió cuồng, bão táp... Trong khi đó, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải thơ mộng, dịu dàng. Ở đoạn trích Những ngày đầu của nước Việt Nam mới của Võ Nguyên Giáp, có những nét đặc biệt trong nghệ thuật thể hiện. Tác giả tái hiện những chi tiết, sự kiện lịch sử từ điểm nhìn của một người lãnh đạo trong chính quyền cách mạng. Vừa là nhân chứng, vừa là là người can dự vào sự kiện lịch sử. Các sự kiện, vì vậy được kể lại mang tính toàn cảnh, tổng thể, được phác họa ở những nét lớn, những cái gây ấn tượng sâu sắc với nhiều người. Giọng điệu trần thuật khách quan. Những cảm nghĩ, nhận xét, đánh giá thường mang tính khách quan, điển hình cho cảm nghĩ chung của những người lãnh đạo Đảng và Chính phủ. Cách trần thuật như vậy đã làm cho tác phẩm mang tính chất một cuốn biên niên sử. Về mặt này, có thể thấy có sự gần gũi với những văn bản kí trung đại đã học ở các lớp dưới, GV cho HS tích hợp, đối chiếu, so sánh để làm rõ ràng đặc trưng của văn bản văn học phi hư cấu. Gợi mở cho HS khái quát các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ đặc sắc qua đọc hiểu văn bản văn học là việc làm cần thiết. Bởi lẽ, suy đến cùng sau khi đọc xong một văn bản những điều cốt yếu nhất đọng lại ở các em là gì. Do văn bản văn học phi hư cấu có những đặc trưng riêng so với văn bản văn học hư cấu, nên việc gợi mở cho HS khái quát giá trị tư tưởng thẩm mĩ có những khác biệt. Mặt khác, cách thức và nội dung gợi mở ở văn bản văn học phi hư cấu hiện đại cũng có những khác biệt nhất định so với văn bản văn học phi hư cấu trong văn học trung đại. Ba phương diện chủ yếu HS cần khái quát được (tính xác thực của nhân vật, sự kiện; cái tôi nhà văn; đặc sắc nghệ thuật) là giống nhau, song ở văn học hiện đại cách thể hiện có nhiều khác biệt. 2.3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục có định hướng được tổ chức ngoài 24 chương trình Ngữ văn THPT đối với các cấp quản lí, các trường và nhất là các GV giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT. 3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm Trong quá trình tiến hành TN, chúng tôi đã thống nhất chọn mỗi khối 2 lớp: lớp TN và lớp ĐC. Những lớp này phải có chất lượng học tập tương đương nhau. Điều đó sẽ giúp chúng tôi trong quá trình tiến hành TN và dễ dàng hơn trong việc so sánh, đối chiếu. Khi tiến hành TN không thông báo trước cho HS, không có người dự giờ, học sinh TN không biết đang được TN, giáo viên phải giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành. Ngoài ra, trong quá trình tiến hành dạy TN cũng không được làm đảo lộn trật tự, kế hoạch của trường và của GV TN. 3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm 3.2.1. Lựa chọn địa bàn thực nghiệm Tổ chức TN tại 2 lớp bất kì của cùng một GV giảng dạy tại 2 trường với môn Ngữ văn lớp 10 &11. Cụ thể như sau: - Trường THPT X - Trường THPT Y 3.2.2. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm Để thấy xem xét tính khả thi của phương pháp nghiên cứu, chúng tôi chọn các lớp TN và ĐC dựa vào điểm kiểm tra tập trung môn Ngữ văn (bài kiểm tra chất lượng đầu năm học) gần tương đương nhau. Chúng tôi đã chọn các cặp lớp TN và ĐC tương đương nhau về các mặt sau: - Số lượng HS - Chất lượng học tập môn Ngữ văn - GV giảng dạy là cùng một GV và dạy 2 lớp khác nhau. - Các trường tham gia TN đều có 3 tiết/tuần. Bảng 3.1. Các lớp thực nghiệm và đối chứng Lớp TN Lớp ĐC TT Trường - giáo viên TN Lớp Sĩ số Lớp Sĩ số THPT X 1 11C 41 11B 39 (GV: Nguyễn Thị A) 2 THPT Y 10A10 44 10A15 45 26 1. Khởi động - GV có thể chiếu một số hình ảnh về người anh hùng Trần Quốc Tuấn - GV có thể cho HS đọc lại một số đoạn trong bài Hịch tướng sĩ - GV kể một câu chuyện, đọc bài thơ... liên quan đến Trần Quốc Tuấn. 2. Bài mới HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ NỘI DUNG CẦN ĐẠT *Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu I. Tìm hiểu chung chung về tác giả, tác phẩm 1. Tác giả + GV: Gọi HS đọc phần tiểu dẫn - Ngô Sĩ Liên sống vào thế kỉ XV, dưới triều + HS: Đọc phần tiểu dẫn Lê Thái Tông. + GV: Phần tiểu dẫn cung cấp cho chúng ta - Đỗ tiến sĩ năm 1442. những nội dung gì? Theo em nội dung nào - Giữ chức Hữu thị lang bộ Lễ, Triều liệt đại là quan trọng nhất? Vì sao? phu kiêm Tư nghiệp (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám, Tu soạn Quốc sử quán. - Vâng lệnh vua Lê Thánh Tông viết Đại Việt sử kí toàn thư. + HS:Khái quát những nét chính về tác giả 2. Đại Việt sử kí toàn thư và tác phẩm, chỉ ra yếu tố quan trọng là - Hoàn tất năm 1499, gồm 15 quyển. cuộc đời, thời đại, hoàn cảnh ra đời và đặc - Nội dung: ghi chép lịch sử từ thời Hồng trưng thể loại. Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428). + GV: Nhấn mạnh về đặc trưng của thể loại - Dựa trên: Đại Việt sử kí (Lê Văn Hưu) và Sử sử kí. kí tục biên (Phan Phu Tiên). 3. Văn bản Hưng Đạo đại vương Trần Quốc + GV: Hướng dẫn HS đọc văn bản Hưng Tuấn Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn - Vị trí: Trích từ Quyển 2 + HS đọc văn bản - Bố cục: 3 phần + GV: Nhận xét cách đọc, hướng dẫn HS + P1“Tháng sáu... giữ nước”: Lời khuyên vua giọng đọc, cách đọc: Phần lời kể cần đọc Trần về kế sách giữ nước của Trần Quốc với giọng rõ ràng, nhấn mạnh các mốc sự Tuấn. kiện, khi đọc lời bình cần thể hiện chính + P2“Quốc Tuấn là con... viếng”: Trần Quốc kiến, thái độ, tình cảm của tác giả. Phần ghi Tuấn với lời trăng trối của cha, trong câu 28 + HS: Trao đổi trả lời - Phẩm chất của Trần Quốc Tuấn: + GV: Qua lời dặn vua Trần của vị tướng + Có lòng trung quân ái quốc- có ý thức trách già, em thấy ở Trần Quốc Tuấn nổi bật lên nhiệm rất cao với vua với nước. phẩm chất gì? + Là một vị tướng tài ba, mưu lược, có kinh nghiệm dồi dào và tầm nhìn xa trông rộng. + GV:Tại sao tác giả ko mở đầu bằng việc + Có lòng thương dân, trọng dân, biết lo cho kể nguồn gốc, lai lịch của nhân vật mà lai dân. mở đầu bằng lời dặn của cha Trần Quốc Tuấn trước lúc đi xa? + HS: Thảo luận, trả lời. + GV:Nhận xét, bổ sung: Cách mở đầu đó tạo sự hấp dẫn cho bản kể. Bởi nó khơi dậy trong người đọc sự tò mò xem Trần Quốc Tuấn có thực hiện lời di huấn của cha không. + GV nêu vấn đề: Lời cha dặn đã đặt Trần 2. Trần Quốc Tuấn với lời trăng trối của Quốc Tuấn trước những mâu thuẫn nào? người cha, trong các câu chuyện với gia nô Cách giải quyết của ông? Nếu là chúng ta và hai người con trai thì sẽ giải quyết như thế nào? *Trần Quốc Tuấn với lời trăng trối của + GV: Cho HS làm việc theo nhóm người cha + GV: Phát phiếu học tập cho HS Ông ghi nhớ lời cha nhưng không cho là phải. + HS: Làm việc theo nhóm Đặt chữ “trung” lên trên chữ “hiếu” một cách tự nguyện, hết lòng trung nghĩa, dẹp thù + GV: Mời các nhóm trình bày kết quả thảo riêng để phụng sự đất nước, ko mảy may tư luận lợi. + HS: Trình bày + GV: Nhận xét bổ sung + GV:Câu chuyện giữa Trần Quốc Tuấn * Câu chuyện với Yết Kiêu, Dã Tượng: với Yết Kiêu, Dã Tượng có ý nghĩa gì? - Khẳng định nhân cách cao thượng, tấm lòng trung nghĩa, thẳng thắn, cương trực của hai người nô bộc trung thành. 30 + Được hưởng những quyền hạn đặc biệt, được phong tước cho người khác. + Là chỗ dựa tinh thần của vua Trần những lúc vận nước lâm nguy (Câu nói khảng khái:“Đầu tôi chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo!”) + GV:Nét đẹp nào trong nhân cách của + Danh vọng và tài thao lược của ông khiến kẻ Trần Quốc Tuấn biểu hiện qua chi tiết: thù phải kính sợ đến mức không dám gọi tên. “Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho + Được thần thánh hóa trong tâm thức dân một người nào...vậy đấy”? gian. + GV:Các trước tác chính của Trần Quốc - Vẻ đẹp nhân cách: khiêm tốn, giản dị, luôn Tuấn? kính cẩn giữ lễ vua tôi. + GV:Lời dặn dò các con trước lúc mất của - Những trước tác chính: ông có ý nghĩa gì? + Hịch tướng sĩ (Dụ chư tì tướng hịch văn). + HS: Suy nghĩ, trả lời + Binh thư yếu lược (Binh gia diệu yếu lược). + Vạn Kiếp tông bí truyền thư. - Lời dặn con kĩ càng việc mai táng mình như thế nào trước lúc mất có thể do lo lắng sâu xa rằng quân Nguyên có thể trở lại xâm lược và dầo mồ mả của ông lên thể hiện tính cẩn trọng, lo xa. + GV nêu vấn đề: Các em có suy nghĩ, 4. Cái tôi Ngô Sĩ Liên nhận xét và đánh giá như thế nào về nhân - Cái tôi Ngô Sĩ Liên trong đoạn trích Hưng vật người kể chuyện? Đó là một cái tôi như Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn hiện lên một thế nào? Thái độ, tình cảm? Điều chúng cách giản dị, chân thành, thành thực. ta học tập được ở Ngô Sĩ Liên? - Ông tôn trọng sự thật, tôn trọng nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, không hề cẩu thả, dễ dàng. +HS: Trao đổi, bàn bạc và đưa ra ý kiến - Thái độ trân trọng, quý mến, yêu quý nhân chung, ý kiến cá nhân. cách, đức độ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc + GV:Cái tôi Ngô Sĩ Liên hết sức giản dị, Tuấn cũng được bộc lộ rõ nét trong sự khách chân thành, trung thực, có nhân cách, chí quan ấy của tác giả. khí, rất đáng trân trọng và học tập - Đó là một con người có lòng trung thành, có 32 - Mạch kể 2: Khi Trần Quốc Tuấn mất, ông được phong tặng rất trọng hậu. Vì sao? (Vì ông có nhiều công lao to lớn với đất nước và là một con người đức cao vọng trọng). Hoạt động 4: GV cho HS luyện tập IV.LUYỆN TẬP + GV: Gọi HS đọc BT1, SGK T45 1. Bài tập 1 + GV: Cho HS xác định yêu cầu của bài tâp Gợi ý HS tóm tắt theo 2 cách: + HS: Xác định yêu cầu và cách làm bài tập + Cách thứ nhất: Tôn trọng mạch kể của tác 1 giả. + GV: Định hướng cách làm + Cách thứ 2: Tổ chức lại lời kể, bắt đầu từ + HS: Làm bài tập những nét riêng về hoàn cảnh xuất thân, các + GV: Mời 1-2 HS lên làm BT, nhận xét bổ sự kiện trong cuộc đời giúp vua, giúp nước, sung. Trần Quốc Tuấn ốm và mất, được nhà vua + GV cũng yêu cầu HS đọc và xác định phong những danh hiệu cao quý, sự hiển linh cách làm BT2, định hướng cách làm của ông sau khi mất + HS: Làm BT2 tại lớp (nếu có thời gian) 2. Bài tập 2 Gợi ý - HS sưu tầm từ các tài liệu lịch sử, văn học, giai thoại. - Ví dụ: Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu), 10 danh tướng thế giới (Phan Quế Dương) 3. Củng cố: GV nhấn mạnh nội dung quan trọng của bài học: Hình tượng nhân vật lịch sử Trần Quốc Tuấn, cái tôi Ngô Sĩ Liên và nghệ thuật kể chuyện, khắc họa nhân vật. 4. Hướng dẫn về nhà - Hệ thống lại kiến thức toàn bài học. - Làm lại các bài tập - Chuẩn bị bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên 34 III. HOẠT ĐỘNG 1. Khởi động - Giáo viên cho HS xem tranh ảnh về Lê Hữu Trác; kể một câu chuyện ngắn về Lê Hữu Trác. 2. Bài mới - Lê Hữu Trác không chỉ được xem là thầy thuốc giỏi mà còn được xem là một trong những tác giả văn học có những đóng góp lớn lao cho sự ra đời và phát triển của thể loại kí sự. Để hiểu rõ hơn về những điều này, ta cùng nhau tìm hiểu một đoạn trích tiêu biểu của ông. HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG CẦN ĐẠT * Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh tìm I. Tìm hiểu chung hiểu chung về tác giả và tác phẩm: 1. Tác giả + GV: Yêu cầu học sinh đọc phần Tiểu dẫn - 1724 - 1791, hiệu là Hải Thượng Lãn + HS: Đọc Tiểu dẫn Ông, quê Hưng Yên, sống chủ yếu ở + GV: Dựa vào phần Tiểu dẫn, em hãy giới Hương Sơn - Hà Tĩnh. thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn - Là một danh y nổi tiếng: vừa chữa bệnh, trích? Giải thích biệt hiệu Hải Thượng lãn vừa soạn sách ông? + HS: Bám theo SGK và gạch chân các ý + GV: Giải thích nhan đề: Kí sự đến kinh đô 2. Tác phẩm Thượng kinh kí sự: - Xuất xứ: Nằm cuối Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh (66 quyển) + GV: Thế nào là kí sự? - Thể kí: + HS: Thể kí, ghi chép sự việc, câu chuyện + Ghi chép sự việc, câu chuyện có thật, có thật và tương đối hoàn chỉnh bằng cảm xúc chủ quan, giàu chất trữ tình. + GV: Đoạn trích đề cập đến vấn đề gì? + Thượng kinh kí sự: Ghi chép sự việc, câu chuyện có thật và tương đối hoàn chỉnh, bằng chữ Hán, hoàn thành 1783: - Nội dung: + Tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa 36 + Phải qua năm sáu lần trướng gấm + GV: Nhận xét về quang cảnh nơi phủ chúa? + Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, + HS: Lấy ý kiến của tác giả khi mới bước ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày vào phủ “Mình vốn người thường” để phát nệm gấm, màn là che ngang sân, xung biểu quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Lộng lẫy, tráng lệ, thể hiện sự thâm nghiêm và quyền uy tột đỉnh của nhà chúa + GV: Cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn b. Cung cách sinh hoạt với nội dung: Cung cách sinh hoạt trong phủ - Quyền uy chúa ra sao? - Những lời lẽ nhắc đến chúa và thế tử đều + HS: Thảo luận chung. hết sức cung kính, lễ độ + GV: Đặt câu hỏi gợi dẫn cho các nhóm lần - Khuôn phép, trang nghiêm lượt trả lời: - Người hầu kẻ hạ - Tìm những chi tiết miêu tả sinh hoạt nơi phủ - Lễ nghi chúa? Khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh ai? Trong phủ? Những chi tiết này cho thấy điều gì? + GV:Khi họ nhắc đến chúa Trịnh và thế tử, lời lẽ như thế nào? + GV: Xung quanh chúa Trịnh có những ai? Có phải ai cũng được tiếp xúc với chúa? + GV: Nó nói lên điều gì? + GV: bị bệnh được chăm sóc như thế nào? + GV: Nhận xét khái quát về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa + HS: Phát biểu Cao sang, quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa + GV: Cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn 2. Cái tôi đáng kính với nội dung: Những quan sát, ghi nhận này a. Cách nhìn, thái độ của tác giả 38
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ngu_van_day_hoc_doc_hieu_cac_van_ban_h.pdf