Bài giảng Chuyên đề Ngữ văn Lớp 12 - Hướng dẫn ôn tập và tự học thi THPT Quốc gia - Nhóm tác giả

docx 36 Trang tailieuthpt 85
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Chuyên đề Ngữ văn Lớp 12 - Hướng dẫn ôn tập và tự học thi THPT Quốc gia - Nhóm tác giả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Chuyên đề Ngữ văn Lớp 12 - Hướng dẫn ôn tập và tự học thi THPT Quốc gia - Nhóm tác giả

Bài giảng Chuyên đề Ngữ văn Lớp 12 - Hướng dẫn ôn tập và tự học thi THPT Quốc gia - Nhóm tác giả
 TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN TẬP VÀ TỰ HỌC THI THPT
 QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN LỚP 12
Nhóm giáo viên khối 12:
 1. Đậu Xuân Trịnh
 2. Thái Thị Thuận
 3. Chu Thị Hồng Nhung
 4. Trần Thị Bích Ngọc
 5. Phan Thị Mỹ Nhân
 A. PHẦN ĐỌC HIỂU VÀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
PHẦN I: ĐỌC HIỂU( 3 điểm)
I. CÁC DẠNG CÂU HỎI VÀ PHẬM VI KIẾN THỨC:
 1. Nhận xét, phân tích các đề thi minh họa của Bộ
Các đề minh họa của Bộ đều sử dụng văn bản ngoài chương trình sách giáo khoa nhưng lại đề 
cập đến vấn đề vô cùng gần gũi, thiết thực và mang tính giáo dục cao - vấn đề nghị lưc, niềm 
tin, niềm đam mê, khám phá bản thân
1.1. Các câu hỏi thuộc về các kiến thức:
- Tiếng Việt (Hiểu nghĩa của từ, câu, các biện pháp tu từ, các phương thức biểu đạt, các loại 
phong cách ngôn ngữ)
- Làm văn: (Cách trình bày văn bản, các thao tác lập luận)
- Kết hợp cả kiến thức trong văn bản với kiến thức xã hội (sự hiểu biết riêng của HS)
1.2. Các kĩ năng:
- Kĩ năng nhận biết (phát hiện trên văn bản)
- Kĩ năng hiểu (hiểu từ, hiểu câu, hiểu ý tác giả)
- Kĩ năng vận dụng (nêu suy nghĩ riêng của bản thân)
1.3. Những kiểu câu hỏi thường sử dụng
- Ở dạng câu hỏi nhận biết: Thường hỏi xác định phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, 
tìm từ ngữ, hình ảnh, xác định cách trình bày văn bản
- Ở dạng câu hỏi hiểu: Thường hỏi hs hiểu như thế nào về một câu nói trong văn bản; hỏi theo 
học sinh thì vì sao tác giả lại cho rằng, nói rằng(kiểu hỏi này là để xem hs và tác giả có đồng 
quan điểm hay không); Kiểu câu hỏi theo tác giả Ba kiểu hỏi này thường lặp đi lặp lại.
- Ở dạng câu hỏi vận dụng: Thường yêu cầu HS rút ra thông điệp có ý nghĩa, điều tâm đắc hoặc 
chỉ ra những việc làm cụ thể của bản thân.
1.4. Những câu hỏi nâng cao nhằm phân hóa học sinh: Tập trung chủ yếu ở câu hỏi hiểu và 
vận dụng, yêu cầu HS vừa phải hiểu văn bản vừa phải có kiến thức sâu rộng từ thực tế chứ 
không chỉ dựa vào văn bản.
2. Phương pháp làm bài
* Nắm vững 3 mức độ câu hỏi: Nhận biết, thông hiểu và vận dụng (thấp)
* Phương pháp chung
- Bước 1: Phải đọc thật kỹ văn bản.
- Bước 2: Đọc hết các câu hỏi một lượt, đồng thời gạch chân dưới trọng tâm mỗi câu hỏi
- Bước 3: Lần lượt trả lời từng câu
* PP cụ thể với mỗi mức độ câu hỏi
- Ở câu nhận biết:
+ Cần lưu ý một số dấu hiệu: chính, chủ yếu, các, những, một, một số
VD: Chỉ ra PTBĐ chính à đáp án chỉ có một, và phải chính xác
VD: Chỉ ra các PTBĐ à đáp án phải từ hai trở lên, chính xác
+ Cần phân biệt rõ các khái niệm: PTBĐ, PCNN, TTLL, Cách triển khai VB (Hình thức lập 
luận) để tránh nhầm lẫn - Ở câu vận dụng (thấp): Câu trả lời hoàn toàn do nhận thức, cách nghĩ của chúng ta
+ Nếu yêu cầu rút ra thông điệp: Có hai cách, một là chọn ngay một câu có ý nghĩa nhất làm 
thông điệp, hai là tự rút ra ý nghĩa của văn bản rồi chọn đó làm thông điệp. Sau đó đều phải lí 
giải vì sao anh/ chị chọn thông điệp đó.
(Lưu ý: Đây là câu hỏi vận dụng, có độ phân hóa cao, nên dù câu hỏi không yêu cầu giải thích vì 
sao, hs vẫn phải lí giải)
+ Nếu yêu cầu nêu lên điều anh/chị tâm đắc, hoặc một số việc làm cụ thể: Câu trả lời hoàn toàn 
dựa trên sự hiểu biết của hs, cần nêu được ít nhất ba nội dung, rõ ràng, tránh dài dòng.
Phân bố thời gian: Thời gian hợp lí giao động từ 20 - 25 phút. Nếu quá thời gian trên mà vẫn 
chưa giải quyết hết thì phải dừng lại để làm phần II. Sau khi hoàn thành xong phần làm văn, tiếp 
tục suy nghĩ trả lời (nếu còn thời gian).
II. KIẾN THỨC ĐỂ LÀM BÀI ĐỌC HIỂU
1. Nhận diện các phong cách ngôn ngữ
Sau khi cung cấp kiến thức về các loại phong cách ngôn ngữ, giáo viên cần nhấn mạnh lại đặc 
điểm nhận diện của các loại phong cách để học sinh dễ phân biệt khi xác định phong cách đó 
trong một văn bản.
 Phong cách ngôn Đặc điểm nhận diện
 ngữ
1 Phong cách ngôn Dùng trong những văn bản thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến 
 ngữ khoa học khoa học, đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu
2 Phong cách ngôn Kiểu diễn đạt dùng trong các loại văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông của 
 ngữ báo chí (thông xã hội về tất cả các vấn đề thời sự.
 tấn)
3 Phong cách ngôn Dùng trong lĩnh vực chính trị - xã hội, người giao tiếp thường bày tỏ chính 
 ngữ chính luận kiến, bộc lộ công khai quan điểm tư tưởng, tình cảm của mình với những 
 vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội
4 Phong cách ngôn -Dùng chủ yếu trong tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông 
 ngữ nghệ thuật tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người; từ ngữ trau chuốt, 
 tinh luyện
5 Phong cách ngôn -Dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực giao tiếp điều hành và quản lí xã 
 ngữ hành chính hội.
6 Phong cách ngôn - Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày, mang tính tự nhiên, thoải 
 ngữ sinh hoạt mái và sinh động, ít trau chuốttrao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm trong 
 giao tiếp với tư cách cá nhân
2. Các phương thức biểu đạt
Ở phần lý thuyết về phương thức biểu đạt giáo viên cung cấp cho học sinh kiến thức lý thuyết về 
6 phương thức thường xuất hiện trong văn bản. Chú ý đến các đặc điểm để nhận diện các 
phương thức
 Lưu ý cho học sinh: trong một văn bản thường xuất hiện nhiều phương thức như tự sự và miêu 
tả, thuyết minh và biểu cảm song sẽ có một phương phương thức nổi bật. Giáo viên kẻ bảng 
lý thuyết để học sinh dễ so sánh, nhận diện tiếp thu kiến thức.
 Phương Đặc điểm nhận diện Thể loại
 thức
Tự sự Trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả dẫn đến - Bản tin báo chí
 kết quả. (diễn biến sự việc) - Bản tường thuật, thiết phải phân tích dẫn chứng để lập luận CM thuyết phục hơn. Đôi khi 
 thuyết minh trước rồi trích dẫn chứng sau.)
4 Bác bỏ Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định 
 đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình.
5 Bình Bình luận là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng đúng hay 
 luận sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử 
 phù hợp và có phương châm hành động đúng.
6 So sánh So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, 
 đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống nhau 
 hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật 
 mà mình quan tâm.
 Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương 
 đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản.
4. Các biện pháp tu từ
Sau khi cung cấp kiến thức lý thuyết để học sinh nhận dạng được các biện pháp tu từ thường 
gặp, giáo viên cần nhấn mạnh: Trong đề thi, câu hỏi thường có dạng, tìm ra biện pháp tu từ và 
phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ ấy. Chính vì thế các em phải nhớ được hiệu quả nghệ 
thuật mang tính đặc trưng của từng biện pháp. Đáp ứng yêu cầu nhớ kiến thức trọng tâm tôi đã 
cung cấp cho các em bảng kiến thức sau:
Biện pháp tu từ Hiệu quả nghệ thuật (Tác dụng nghệ thuật)
So sánh Giúp sự vật, sự việc được miêu tả sinh động, cụ thể tác động đến trí tưởng 
 tượng, gợi hình dung và cảm xúc
Ẩn dụ Cách diễn đạt mang tính hàm súc, cô đọng, giá trị biểu đạt cao, gợi những liên 
 tưởng ý nhị, sâu sắc.
Nhân hóa Làm cho đối tượng hiện ra sinh động, gần gũi, có tâm trạng và có hồn gần với 
 con người
Hoán dụ Diễn tả sinh động nội dung thông báo và gợi những liên tưởng ý vị, sâu sắc
Điệp từ/ngữ/cấu Nhấn mạnh, tô đậm ấn tượng - tăng giá trị biểu cảm, tạo âm hưởng nhịp điệu 
trúc cho câu văn, câu thơ.
Nói giảm Làm giảm nhẹ đi ý muốn nói (đau thương, mất mát) nhằm thể hiện sự trân trọng
Thậm xưng Tô đậm, phóng đại về đối tượng
Câu hỏi tu từ Bộc lộ, xoáy sâu cảm xúc (có thể là những băn khoăn, ý khẳng định)
Đảo ngữ Nhấn mạnh, gây ấn tượng sâu đậm về phần được đảo lên
Đối Tạo sự cân đối, đăng đối hài hòa
Im lặng Tạo điểm nhấn, gợi sự lắng đọng cảm xúc
Liệt kê Diễn tả cụ thể, toàn diện nhiều mặt
5. Các phép liên kết (liên kết các câu trong văn bản)
Các phép liên kết Đặc điểm nhận diện - Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Nghị luận về một vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm. (Đối với dạng này thường có 
sự liên hệ từ tác phẩm đối với xã hội. Đó có thể là một hình ảnh, một sự kiện, hoặc một chi tiết 
nào đó trong tác phẩm).
II. Lưu ý làm các dạng bài viết đoạn văn nghị luận
- Đây là phần dễ kiếm điểm nhất trong cấu trúc đề thi. Với thiết kế đề thi như vậy, các em 
sẽ rất dễ dàng triển khai vấn đề.
- Dung lượng yêu cầu khoảng 200 chữ, vì vậy cần viết ngắn gọn súc tích. Đi thẳng trực 
tiếp vào vấn đề, chia luận điểm, luận cứ rõ ràng.
- Thời gian viết bài nghị luận dao động từ 20-25 phút. Tránh tập trung quá nhiều vào dạng 
bài này mà mất thời gian câu sau.
- Lưu ý đối với cách trình bày: trình bày như 1 đoạn văn, không có ngắt xuống dòng. Tuy 
vậy, vẫn đảm bảo đủ 3 phần mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Bài 200 chữ ứng với khoảng 20 
dòng, 2/3 tờ giấy thi.
III. Cách triển khai bài: Linh hoạt trong cách lựa chọn hình thức. Với dung lượng bài ngắn chỉ 
chọn những dẫn chứng tiêu biểu. Nắm vững mô típ như sau:
- Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Thân đoạn: Triển khai vấn đề nghị luận.
- Kết đoạn: Liên hệ đối với bản thân.
IV. Cách viết đoạn văn nghị luận 200 từ:
1. Bước 1: Đọc kỹ đề bài
Dựa vào cấu trúc đề thi mẫu của Bộ GD- ĐT, dạng bài nghị luận – xã hội sẽ lấy một ý nhỏ trong 
bài đọc hiểu để làm đề thi viết đoạn văn 200 từ. Vì vậy cần lưu ý như sau:
- Trước hết các em phải đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được cốt lõi nội dung. Từ đó xem đề yêu 
cầu mình bàn về vấn đề gì? Nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc về dạng bài Tư tưởng 
đạo lý hay Hiện tượng đời sống. 
- Xác định xong dạng bài nghị luận xã hội, các em viết dàn ý mẫu của dạng bài đó.
Tham khảo ví dụ:
Ví dụ được trích từ Bài phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp trường trung học Wellesley của thầy 
Hiệu trưởng David McCullough.
“Leo lên đỉnh núi không phải để cắm cờ mà là để vượt qua thách thức, tận hưởng bầu không khí 
và ngắm nhìn quang cảnh rộng lớn xung quanh. Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm 
thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em. Hãy đến Paris để tận hưởng cảm giác đắm 
chìm trong Paris chứ không phải lướt qua đó để ghi Paris vào danh sách các địa điểm các em 
đã đi qua và tự hào mình là con người từng trải.
Tập luyện những suy nghĩ độc lập, sáng tạo và táo bạo không phải để mang lại sự thỏa mãn cho 
bản thân mà là để đem lại lợi ích cho 6,8 tỷ người trên trái đất của chúng ta. Rồi các em sẽ phát 
hiện ra sự thật vĩ đại và thú vị mà những kinh nghiệm trong cuộc sống mang lại, đó là lòng vị 
tha mới chính là điều tốt đẹp nhất mà các em có thể làm cho bản thân mình. Niềm vui lớn nhất 
trong cuộc đời thực ra lại đến vào lúc các em nhận ra các em chẳng có gì đặc biệt cả. Bởi tất cả 
mọi người đều như thế “.
Câu nghị luận xã hội cho là: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của 
anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Leo lên đỉnh cao là để các em có 
thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em.”
Như vậy, để có thể làm tốt dạng bài nghị luận – xã hội các em cần đọc kỹ phần đọc hiểu. Có 
như vậy, các em mới nắm bắt được những ý tác giả muốn nói tới. Cùng cảm nhận thế giới và 
cảm nhận thái độ ứng xử văn hóa trước thế giới, trước cuộc đời. Câu 1. (2,0 điểm)
 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình 
 bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng hiếu thảo trong cuộc sống con người.
 HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI
Phần Câu Nội dung Điểm
 /Ý
I Đọc hiểu 3.0
 1 Thể thơ: lục bát 0.5
 2 Biện pháp tu từ: nhân hóa(giàn trầu bơ vơ, tội nghiệp, thân cau - tủi 0.5
 thân ); phép đảo: đưa các từ bơ vơ, tội nghiệp và tủi thân lên đầu các 
 dòng thơ.
 Tác dụng: Phép đảo để nhấn mạnh tâm trạng; biện pháp tu từ nhân 
 hóa làm cho hình ảnh giàn trầu, thân cau trở nên gần gũi, như một sinh 
 thể có cảm xúc riêng. Qua đó, ta thấy được nhà thơ đã mượn hình ảnh 
 sự vật để bộc lộ nỗi buồn của người con khi xa mẹ hiền.
 3 Nội dung các dòng thơ: 1.0
 - Ngày con trở về thì mẹ đã không còn bên con nữa, mẹ đã qua đời, để 
 lại con bơ vơ, mọi thứ đều trở nên trống vắng.
 - Bộc lộ niềm thương cảm, xót xa của tác giả.
 4 Căn cứ vào nội dung đoạn thơ, thí sinh lựa chọn thông điệp mà bản 1.0
 thân tâm đắc nhất và nêu rõ lí do chọn thông điệp đó.
 Gợi ý: Thông điệp: 
 -Trân trọng những phút giây ở cạnh bên mẹ, đừng để mất đi rồi mới 
 hối tiếc. 
 - Tình mẫu tử bao giờ cũng rất thiêng liêng, cao quý.
II Làm văn
 1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn 2.0
 văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng hiếu thảo.
 a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0.25
 Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, 
 tổng -phân-hợp, song hành hoặc móc xích.
 b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: suy nghĩ 0.25
 về ý nghĩa của lòng hiếu thảo.
 c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề 1.00
 nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ suy nghĩ về ý nghĩa của 
 lòng hiếu thảo. Có thể triển khai theo hướng sau:
 - Lòng hiếu thảo có nghĩa là đối xử tốt với cha mẹ; chăm sóc cha mẹ 
 của mình. Hiếu thảo còn là hành động yêu thương, chăm sóc, phụng 
 dưỡng ông bà, cha mẹ khi già yếu và thờ phụng sau khi họ qua đời.
 - Người có lòng hiếu thảo sẽ làm cho cha mẹ được vui vẻ, tinh thần 
 được bình an, thư thái. 
 - Hiếu thảo còn là một lối sống tốt đẹp đã trở thành chuẩn mực trong 
 truyền thống văn hóa Việt Nam.
 - Sống có lòng hiếu thảo là lối sống cao đẹp, biết quý trọng công ơn 
 dưỡng dục của ông bà cha mẹ, thể hiện niềm tri ân sâu sắc đối với các 
 bậc sinh thành. Lòng hiếu thảo thể hiện sự bao dung, sống có trách 
 nhiệm.
 - Người có lòng hiếu thảo luôn được mọi người yêu mến, trân trọng.
 - Hiếu thảo với cha mẹ khiến con cái trưởng thành hơn. Lòng hiếu thảo HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Phần Câu/ Nội dung Điể
 Ý m
I Đọc hiểu 3.0
 1 Theo tác giả, chính những khó khăn thử thách sẽ góp phần nhào nặn 0.5
 bạn trở thành một phiên bản tốt hơn.
 2 Tác dụng câu hỏi tu từ được sử dụng trong văn bản: gồm 4 câu hỏi tu 0.5
 từ:
 Làm cách nào để có thể đứng vững giữa muôn vàn cạm bẫy, khó khăn, 
 thử thách? Làm cách nào để có thể luôn hiên ngang vững vàng trên đôi 
 chân của mình và mở rộng vòng tay chào đón những điều mà cuộc đời 
 mang đến? Điều gì giúp chúng ta vượt qua khó khăn trở ngại? Điều gì 
 dẫn đường chỉ lối cho ta đi xuyên qua màn đêm sóng gió để đạt được 
 điều mong muốn?
 - Tạo ấn tượng, tập trung chú ý cho người nghe
 - Giúp bộc lộ cảm xúc của tác giả đối với việc đón nhận và vượt qua các 
 khó khăn trở ngại.
 3 Trọng tâm cuộc đời là những điều quan trọng nhất đối với cuộc đời con 1.0
 người. Ta phải dựa vào đó để lấy nó làm mục tiêu, để suy nghĩ quyết 
 định hoạt động, làm thước đo điều chỉnh bản thân và tạo sức mạnh để 
 vượt qua những lúc khó khăn.
 4 HS có thể đồng tình/không đồng tình/ đồng tình một phần trên cơ sở lập 1.0
 luật chặt chẽ, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật
 - Khẳng định đồng tình/không đồng tình/ đồng tình một phần (0.25)
 - Trình bày ngắn gọn nguyên nhân ( 0.75)
 Gợi ý: Trường hợp đồng tình. Xuất phát từ những nguyên nhân sau:
 Em đồng tình với quan điểm đó vì khi có được trọng tâm cuộc đời 
 của bản thân mình thì mọi hoạt động đều có mục đích và suy nghĩ chín 
 chắn, giúp ta không đi sai đường và không phải thất vọng sau này. Nếu 
 có khó khăn, cạm bẫy, nó sẽ là động lực để ta đứng dậy bước tiếp. 
II Làm văn
 1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn 2.0
 khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa việc tìm kiếm cho mình một 
 điểm tựa vững chắc của con người trong cuộc sống.
 a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0.25
 Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, 
 tổng -phân-hợp, song hành hoặc móc xích.
 b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: ý nghĩa 0.25
 việc tìm kiếm cho mình một điểm tựa vững chắc của con người trong 
 cuộc sống.
 c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề 1.00
 nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa việc tìm kiếm cho 
 mình một điểm tựa vững chắc của con người trong cuộc sống.Có thể 
 triển khai theo hướng sau:
 - Ý nghĩa việc tìm kiếm cho mình một điểm tựa vững chắc
 +Một điểm tựa vững chắc của con người trong cuộc sống là nơi để mỗi 
 người nương dựa, là nơi tiếp cho họ sức mạnh, niềm tin, động lực sống, 
 nơi mang lại cảm giác ấm áp, bình yên. Trong cuộc sống, không ai có 
 thể chắc chắn rằng cuộc đời mình thuận lợi mãi mãi. Có thể đến một lúc + Các phản ứng của Mị sau khi về làm dâu gạt nợ: Đêm nào Mị cũng khóc và định ăn lá ngón, 
nhưng thương cha nên Mị phải tiếp tục sống. Hoàn cảnh khắc nghiệt đã giết chết tâm hồn nhân 
vật. Không gian tồn tại của cô chẳng khác gì địa ngục.
- Nghệ thuật trần thuật ở phần đầu của truyện:
+ Kết hợp giữa kể và tả
+ Kết hợp miêu tả ngoại cảnh với miêu tả ngoại hình và tâm trạng nhân vật
+ Lời trần thuật ở ngôi thứ ba từ điểm nhìn bên ngoài, nhưng có nhiều đoạn nhập vào ý nghĩ, lời 
độc thoại của nhân vật.
+ Nhịp điệu trần thuật chậm, trầm lắng với giọng xót xa thương cảm thể hiện sự đồng cảm với 
tình cảnh và số phận nhân vật.
- Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do của Mị:
+ Tác động của ngoại cảnh dến sự hồi sinh của tâm hồn. Mị sống giữa hiện tại và hồi tưởng. Mị 
uống rượu và định đi chơi. Khi bị A Sử trói nhưng Mị vẫn bồi hồi với thế giới của riêng mình.
+ Hành động cắt giây trói cho A Phủ và tự giải thoát của nhân vật.
 Ban đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên vì Mị đã mất đi cảm giác, cô sống theo bản 
năng chịu đựng. Nhưng một đêm kia, khi thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị hồi tưởng lại quá 
khứ của mình. Các cảm giác sống được đánh thức, từ chỗ thương mình, Mị thương A Phủ và 
tình thương người trong Mị lớn hơn tất cả, Mị quyết định cởi trói cho A Phủ. Đây là hành động 
rất lô gíc phù hợp với quy luật phát triển tâm lí và tính cách của nhân vật. Nhưng khi A Phủ 
chạy rồi, Mị mới thấy sợ và nỗi sợ cố hữu đã thúc đẩy cô chạy theo.
- Những nét tính cách nổi bật của Mị:
Mị là cô gái hồn nhiên, trẻ đẹp và tràn đầy sức sống. Khi bị bắt làm dâu trừ nợ, cô phản kháng 
quyết liệt nhưng hoàn cảnh quá khắc nghiệt đã làm Mị mất dần cảm giác, tê liệt sức phản kháng. 
Tuy vậy, ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt cùng với khát vọng tự do. Sức sống ấy khi 
có cơ hội sẽ chuyển thành hành động phản kháng. Miêu tả quá trình vận động tâm lí của nhân 
vật, chứng tỏ Tô Hoài có sự đồng cảm sâu sắc với số phận nhân vật. Khám phá được vẻ đẹp 
tâm hồn người lao động.
a2. Nhân vật A Phủ:
- APhủ có một tuổi thơ cơ cực, đau khổ, đầy nước mắt
+ Lên 10 tuổi, cả nhà chết vì bệnh đậu mùa, Aphủ trở thành đứa trẻ mồ côi.
+ Cũng năm ấy làng đói, Aphủ bị bắt , bị đem bán, Aphủ mất cả quê hương
- A Phủ, người ở trừ nợ.
+ Lí do sự có mặt của A Phủ trong nhà thống lí.
+ Hành động và tính cách của A Phủ: mạnh mẽ, gét cường quyền, bạo ngược...gần gũi với thiên 
nhiên, chất phác. 
+ Việc A Phủ bị bắt làm người ở trừ nợ tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm.
b. Đặc sắc nghệ thuật của truyện:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được khắc họa sinh động, có cá tính rõ nét.
- Ngòi bút tả cảnh rất đặc sắc.
- Nghệ thuật kể chuyện rất thành công.
- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc.
- Giọng trần thuật ăn nhập với tư tưởng của truyện và nội dung từng đoạn.
- Truyện giàu chất thơ: uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết 
bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị .
 Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ 
một mình giữa nhà.Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường. Mị từ từ bước 
vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra 
cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột 
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. 
Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với 
nhau mà vẫn phải ở với nhau!Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, 
chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn 
lửng lơ bay ngoài đường.
 Anh ném pao,em không bắt
 Em không yêu,quả pao rơi rồi...
 (Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 7,8)
 Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét sự tinh tế 
khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
 Câu 3: Trong truyện Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã hai lần nói về việc Mị “vùng 
bước đi” và “băng đi” ở hai đoạn văn sau:
 Đoạn 1:
 “...Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn 
nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không 
yêu, quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào... Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân 
đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa... ”
 Đoạn 2:
 “...Mị đứng lặng trong bóng tối.
 Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưnng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã 
lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
 A Phủ cho tôi đi.
 A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
 Ở đây chết mất.... ”
 (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, sách Giáo khoa Ngữ văn 12, cơ bản, Nxb Giáo dục Việt 
Nam, 2008, tr 9,11)
 Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật khát vọng sống của 
nhân vật này.
Câu 4: Về nhân vật Mị, có ý kiến cho rằng :
"Nét nổi bật ở người phụ nữ này là sự nhẫn nhục và ý thức đầu hàng hoàn cảnh"
Ý kiến khác lại khẳng định : Nét nổi bật ở Mị chính là sự phản kháng mạnh mẽ và khát vọng 
sống mãnh liệt.
 Anh /chị hãy bình luận các ý kiến trên 
 -----------------------------&&------------------------------ 
 &2.Truyện ngắn VỢ NHẶT (KIM LÂN)
I. CỦNG CỐ KIẾN THỨC
1.Tác giả: + Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên 
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát 
bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm 
của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá 
tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, 
Tràng nói đùa với thị “Này  rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định 
“đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”.
*Niềm hạnh phúc khi có vợ:
- Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Mặt phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên 
lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò, ngạc nhiên và những lời xì xào bàn tán của người dân 
trong xóm, Tràng rất hãnh diện, đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người - Tràng 
đã có vợ.
- Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không 
có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia 
bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình 
“Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt. 
Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi 
người mẹ nói chấp nhận Tràng mới thở đánh phào một cái.
 Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Nhiều 
lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát 
khao mái ấm gia đình luôn tiềm ẩn trong anh.
- Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau:
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; 
mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước 
vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi 
bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy 
nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm - đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng 
mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình... vợ con 
sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn 
đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
- Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê 
Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của 
những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản 
thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người 
đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình 
anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
b. Thị (người “vợ nhặt”)
- Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian 
tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi 
cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình môt con số 
không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
- Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính 
cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! 
“Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”. bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm 
của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
- Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự 
cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà 
bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng 
lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói 
ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của 
Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói 
giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và 
Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu 
ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói 
khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
- Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính 
cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là 
“sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái 
đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời 
mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng 
nước mắt chảy xuống ròng ròng.
- Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một 
tương lai tươi sáng phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những 
búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm 
khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một 
đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng 
không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy 
giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão 
bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện 
của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như 
tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin 
và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng 
nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
- Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống 
thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài 
trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã 
sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những 
giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
- Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương 
con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận 
người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa 
sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
4. Giá trị nội dung và nghệ thuật
a. Giá trị nội dung:
* Giá trị hiện thực:
- Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là 
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945.
- Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, 
đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
* Giá trị nhân đạo: Phân tích đoạn văn trên để làm rõ cảm xúc và nhận thức của Tràng sau khi có vợ.
 -----------------------&&&----------------------
 &3.Truyện ngắn "RỪNG XÀ NU "(NGUYỄN TRUNG THÀNH)
 I.Tác giả:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp 
và chống Mỹ. Chín năm trước khi Rừng xà nu ra đời, Nguyễn Trung Thành đã viết “Đất nước 
đứng lên”. Viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tác phẩm của ông đã đề cập 
tới những vấn đề có tính trọng đại đối với cả dân tộc, xây dựng những tính cách anh hùng tiêu 
biểu cho nhân dân. Cảm hứng chủ đạo trong các trang viết của Nguyên Ngọc là cảm hứng về 
quê hương, đất nước và những con người Việt Nam anh hùng.
II. TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác rừng xà nu
– Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Nam . 
 Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân 
dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.
– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được 
in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2.Tóm tắt rừng xà nu
Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm 
ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về 
thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã 
trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả 
dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú 
cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt 
ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng 
mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt 
vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn 
lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười 
đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau 
đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn 
Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
3. Nhan đề rừng xà nu
-Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của 
tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh 
này.
– Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và 
tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người 
Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
4. Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các 
nhân vật ở trong truyện.
* Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng :
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy 
nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn + Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của 
bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết 
dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ 
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận 
sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng 
ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay 
tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây 
Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý 
(bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi 
không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được 
vợ con và bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là 
sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách 
mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số 
phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ 
đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói 
riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
6. Cụ Mết, Dít, bé Heng
– Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người 
kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con 
đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất 
của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
– Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; 
tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là 
lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết 
liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu 
đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.
– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến 
chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách 
mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà 
nu con” “mới mọc lên”.
7. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng 
chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là 
vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh 
cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người 
Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung 
thành với cách mạng
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng 
từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà II. TÁC PHẨM
1/HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được hoàn thành vào tháng 2 năm 1966, trong 
những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt, khi nhà văn công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân giải 
phóng.
2/. TÓM TẮT NỘI DUNG
Truyện kể về gia đình anh giải phóng quan tên Việt. Việt được sinh ra trong một gia đình có 
truyền thống cách mạng, ba mẹ đều bị giết dưới bàn tay của kẻ thù. Chính mối thù sâu sắc với 
Mĩ – Ngụy đã thôi thúc những người con trong gia đình ấy khát khao chiến đấu để trả thù nhà, 
nợ nước. Trong một trận đánh, Việt bị thương, bị lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. 
Cũng giống như những lần tỉnh dậy trước, hôi ức quá khứ, hiện tại luôn đan xen nhau. Lần tỉnh 
thứ tư của Việt, kí ức về má hiện về, mấy hạt mưa làm Việt choàng tỉnh hẳn. Việt sợ bóng tối, 
sợ ma hơn là sợ giặc. Dù bị thương nhưng anh vẫn phần biệt rất rõ đâu là tiếng súng nổ của ta, 
đâu là tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân. Việt 
đòi đi nhưng chị Chiến không nghe, sau đó phải nhờ chú Năm phân giải. Chú Năm nhất trí cho 
cả hai đi. Trước khi lên đường, chị Chiến lo thu xếp công việc gia đình. Gửi em út sang chú 
Năm, nhà cửa gửi cho các anh trong chi bộ làm nơi dạy học, ruộng trả lại cho xã, gửi bàn thờ má 
sang chỗ chú Năm. Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh hai chị em Việt – Chiến khiêng bàn thờ 
má sang gửi chú Năm.
3/. NHAN ĐỂ
“Những đứa con” trong nhan đề của truyện trước hết chính là Việt và Chiến – những người con 
trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung son 
sắt với quê hương cách mạng. Mở rộng hơn, cũng có thể hiểu đó là thế hệ trẻ miền Nam, những 
người con của đại “gia đình” miền Nam ruột thịt trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt.
Nhan đề gợi lên mối quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà với nước, giữa tình cảm gia đình 
với tình yêu nước, yêu cách mạng. Chính sự kết hợp giữa truyền thống gia đình với truyền thống 
dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dần tộc Việt Nam trong 
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
. 4/ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT
* Người mẹ: (Đọc toàn bộ truyện để có sự phân tích khái quát)
– Qua kí ức đứa con: là người phụ nữ vị tha, nhân hậu nhưng không mềm yếu.
– Có cuộc sống cơ cực, lam lũ, nhọc nhằn, khổ đau (bổ chồng và chổng bị giặc giết, một thân 
một mình nuôi ba đứa con nhỏ).
– Tính cách phi thường trong những biểu hiện tình cảm bình thường:
+ Với chổng: đi đòi đầu chồng -> gan góc.
+ Với con:
Thương con hết mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hổi ức chập chờn của Việt, má hiện lên đầu 
tiên: ghé lại, xoa đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn)
Luôn luôn nhắc nhở con vê’ truyền thống gia đình và mối thù dân tộc.
Hun đúc, nuôi dưỡng ở con ý chí chiến đấu không mệt mỏi. Cả Chiến và Việt luôn tạc dạ lời 
dặn của mẹ.
-> Hình bóng của người mẹ đầy yêu thương và có sức mạnh cổ vũ mãnh liệt với hai chị em. Má 
in dấu trong mỗi câu nói, mỗi hành động của từng đứa con.
*. Chú Năm
– Khắc họa qua giọng hò:
“Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi 
kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thê’ dữ dội.”
-> So sánh tiếng hò như “một hiệu lệnh”, “một lời thể dữ dội.”
-> Tiếng hò hút tất cả tâm lực của chú Năm. – Vốn mổ côi, chị Hai ở xa, đứa em út còn nhỏ, tình cảm thương yêu Việt đối với chị Chiến thật 
sâu đậm. Sau khi cùng ghi tên vào bộ đội, sắp xếp việc xong, Việt và Chiến cùng khiêng bàn thờ 
má gửi sang nhà chú Năm. “Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bình bịch phía sau. Nghe tiếng 
chân chị, Việt thương chị lạ. Lẩn đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù 
thằng Mĩ thì có thế rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.”
– Ngoài tình thương chị, Việt còn rất thương mến chú Năm. Tình cảm hình thành từ những ngày 
Việt còn nhỏ. Việt thương chú Năm vì hồi đó hay bênh Việt. Mỗi khi cất giọng hò, chú làm như 
Việt chính là nơi cụ thể để gửi gắm những cầu hò đó. Theo từng hình ảnh liên tưởng của chú 
Năm, Việt biến thành tấm áo và khăn quàng hoặc con sồng dài, khi thì Việt thành người nghĩa 
quần Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười.
– Trong lúc Việt bị thương, hình ảnh của cha mẹ thần yêu luôn chập chờn ẩn hiện trong hồi ức 
của Việt với bao kỉ niệm đau xót lẫn ngọt ngào. Dường như cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ 
lặng lẽ trong đêm của má, cả những hiểm nguy gian lao mà má đã trải qua một cách không hể sợ 
hãi, tất cả đều được gom và dồn lại trong ý nghĩ cuối cùng này: “Để má ráng nuôi bây lớn coi 
bây có làm được gì cho cha mày vui không?”.
 Tính cách anh hùng và tinh thần chiến đấu dũng cảm
– Phải sống chiến đấu như thế nào, trả thù nhà, đền nợ nước sao cho xứng đáng là những đứa 
con trong một gia đình có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng từ thời chống Pháp đến 
thời chống Mĩ? Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, bằng ý chí bất 
khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội của Việt, ba Việt, chú Năm đểu tham gia 
kháng chiến chống Pháp. Cha bị Tây chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc, những hình ảnh thê 
thảm đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. Chính mối thù nhà là động lực tinh thần và tình cảm thúc 
đẩy chị em Việt anh dũng chiến đấu.
– Giữa trận đánh, Việt bị thương nặng. Mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, chịu đói chịu 
khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng () “Trời tối kì lạ. Việt cho mũi lê đi 
trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi sau cùng. Sau đó, Việt bò gấp qua 
những cái gì nữa Việt không cần biết, quên khắp cả người đang bị rỉ máu, quên cả trận địa sắt 
thép ngổn ngang mà một cành cây nhỏ đụng vào người Việt bây giờ cũng làm nặng thêm 
thương tích”.
– Dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng dậy, Việt day họng 
súng về hướng đó. “Nếu mày đổ quân thì súng tao còn đạn”, Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe 
tiếng xe bọc thép của chúng chạy mỗi lúc một gần.
+ Tỉnh dậy lần thứ tư giữa đêm sầu thẳm, nghe tiếng súng đổng đội từ nơi xa, Việt vẫn cố gắng 
bò về hướng đó. “Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi tay người 
theo. Việt cũng không ý thức rằng mình đang bò đi, mà chính trận đánh đang gọi Việt đến”.
+ Cuối cùng, đồng đội đã tìm được Việt. Dù kiệt sức, Việt vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu 
sinh tử với kẻ thù: một ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và xung 
quanh cậu, dấu xe bọc thép còn nằm ngang dọc. Hình ảnh người lính bị thương vẫn giữ tư thế 
sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng đã thể hiện được tính cách anh hùng của nhân vật.
5. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
a. Đặc sắc trong xây dựng tình huống truyện
– Việt – một chiến sĩ giải phóng quân trẻ – trong một trận đánh anh bị thương nặng, lạc đồng 
đội, phải nằm lại một mình trên chiến trường, nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại.
– Chính trong những lần ngất đi rồi tỉnh lại đó, tất cả những kỉ niệm thân thương nhất của gia 
đình Việt đã hiện về sống động, ấm áp trong dòng nội tâm của anh. Đây là một tình huống tâm 
trạng đã tạo sự vận hành cho mạch truyện qua cách trần thuật riêng theo dòng ý thức của nhân 
vật.
b. Đặc sắc qua nghệ thuật trần thuật
Tác giả đã kể chuyện theo quan điểm, theo dòng ý thức của nhân vật Việt. Qua những lần mê rồi 
tỉnh, nhà văn đã nhập sâu vào hồi ức nhân vật, khơi thông mạch ngầm quá khứ với những kỉ Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè 
nặng ở trên vai.
 Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng 
mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác”.
 (Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi, Ngữ văn 12, Tập hai, Nxb Giáo dục, 2009, 
tr.63)
 Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn trên miêu tả việc hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn 
thờ của má sang gửi nhà chú Năm trước khi lên đường đi đánh Mỹ. Từ đó làm nổi bật sự trưởng 
thành của nhân vật Việt.
 ------------------------&&-----------------------------
 &5.Truyện ngắn CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
I. Kiến thức trọng tâm.
1. Tìm hiểu chung.
a. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện 
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng 
nhất của văn học ta hiện nay"
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu 
là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống 
ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong 
cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
b. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa 
Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp 
cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. 
Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho 
một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật
a. Bố cục
- Truyện chia làm 2 đoạn lớn:
+ Đoạn 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biết mất"). Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp 
ảnh.
+ Đoạn 2: (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.
b. Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh 
- "Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu .... tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân 
lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những 
đứa con.
– Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn, không hề 
khóc lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị đánh đó như 
1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề nghị giúp đỡ thì 
: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ nó” Chị cam 
chịu đến tội nghiệp.
Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một góc 
tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa 
chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu, Phùng 
chia sẻ và cảm thông.
Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc 
sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.
+Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị đứa 
con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô 
cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau 
khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không 
muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa 
con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy 
không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng tự 
trọng và thấu hiểu lẽ đời.
+ Yêu thương con tha thiết(” phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”)
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần thiết 
của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các 
con ” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên 
đấtđược”.
Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,.Chị 
không muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của chị là 
nhìn những đứa con chúng được ăn no.
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót 
xa .
+ Người đàn bà vị tha, lạc quan : 
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong cuộc 
đời bình dị ( “nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận”) .Chị tự 
động viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù thường xuyên bị 
chồng đánh đạp chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và người đọc cảm thấy 
ngột ngạt trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì thấy đó là sự việc rất đỗi 
bình thường. Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính khí hung bạo của chồng và cảm thông, tha thứ 
cho lão.Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. 
Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, 
không bao giờ đánh đập tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên 
nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, 
đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi 
con cho đến khi khôn lớn”). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí giải vì 
sao mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến Phùng và Đẩu đi từ 
ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ 
, và rút ra bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người. Qua câu chuyện của người đàn bà, ta 

File đính kèm:

  • docxbai_giang_chuyen_de_ngu_van_lop_12_huong_dan_on_tap_va_tu_ho.docx